Chào mọi người, đây là bài viết trích từ Youtube của Lê Hoàng Dũng về đòn thuế của Trump lên Việt Nam.
Hôm nay, ngày 4 tháng 4 năm 2025, tôi sẽ có một phần chia sẻ – nói là đặc biệt thì không hẳn, nhưng nó liên quan trực tiếp đến những gì đang diễn ra hiện tại. Đó là câu chuyện về ông Trump và đề xuất thuế 46% của Mỹ có thể đánh lên Việt Nam. Bây giờ, chúng ta sẽ cùng đi vào phân tích vấn đề này. Hôm nay tôi sẽ không đọc câu hỏi, vì thực sự khi nghe tin này, tôi cũng không còn tâm trạng nào nữa.
Như các bạn đã biết, nhà nước hay bất kỳ quốc gia nào đều sử dụng thuế như một công cụ để tạo nguồn thu cho ngân khố. Khi đánh thuế, chính phủ sẽ tạo thêm áp lực lên người tiêu dùng cuối cùng, bởi họ sẽ phải mua hàng với giá cao hơn. Doanh nghiệp cũng sẽ tính thuế vào giá thành sản phẩm. Về bản chất, khi doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu hoặc công cụ sản xuất, họ đã phải trả thuế nhập khẩu. Sau đó, trong quá trình sản xuất và khi xuất bán sản phẩm, họ lại chịu thêm thuế doanh nghiệp. Khi sản phẩm được đóng gói, đưa ra thị trường và nếu được xuất khẩu, chúng ta lại thấy xuất hiện thuế nhập khẩu tại nước đến.
Đây là một phần lý do tại sao đôi khi chúng ta phải mua hàng Việt Nam (có yếu tố nước ngoài) với giá cao hơn so với hàng tương tự sản xuất tại Mỹ (nếu mua ở Mỹ). Một ví dụ dễ thấy hơn là hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc thường có giá cực kỳ rẻ tại nguồn. Nhưng khi về Việt Nam, giá lại có vẻ cao hơn đáng kể. Ngoài thuế, điều này còn do các nhà buôn (con buôn). Khi nhập hàng về, họ sẽ xem xét thị trường, xem đã có ai bán sản phẩm tương tự chưa, giá bán là bao nhiêu, từ đó định một mức giá vừa đủ cạnh tranh nhưng tối đa hóa lợi nhuận. Họ không nhất thiết chỉ nhắm đến mức lời cố định 5% hay 10%. Nếu có vị thế độc quyền, họ sẽ bán giá cao để lời nhiều hơn. Chỉ khi có sự cạnh tranh từ những người khác nhập cùng mặt hàng, họ mới bắt đầu giảm giá. Đó là lý do tại sao những người kinh doanh, doanh nhân thường giàu hơn nhiều so với người làm công ăn lương. Người làm công ăn lương tạo ra giá trị 10 thì có thể chỉ nhận lại 3 hoặc 5. Ngược lại, người đi buôn có thể bán một mặt hàng giá trị 3 với giá 5. Rõ ràng, kinh doanh thường mang lại lợi nhuận cao hơn làm công, nhưng tất nhiên, bạn phải thực sự giỏi mới kiếm được nhiều tiền.
Trở lại câu chuyện Mỹ áp thuế. Ban đầu, dưới thời Trump, Mỹ đã áp thuế 10% (gọi là thuế đối ứng) lên tất cả các mặt hàng nhập khẩu từ nhiều nước. Mục đích là để bù đắp thâm hụt ngân sách đang rất lớn của Mỹ (thậm chí có thông tin gấp vài lần GDP, dù tôi không nhớ chính xác con số). Bộ máy hành chính Mỹ chi tiêu nhiều hơn đáng kể so với nguồn thu từ thuế của người dân. Do đó, Mỹ cần thu thêm thuế. Thay vì tăng thuế trực tiếp lên người dân (dễ gây phản ứng), ông Trump chọn cách đánh thuế vào hàng hóa nhập khẩu. Đây là một cách tạo nguồn thu để cân đối ngân sách.
Ngoài ra, còn có những biện pháp khác như tinh giản bộ máy, cắt giảm nhân lực, loại bỏ các bộ phận chỉ tiêu tiền mà không sinh ra tiền (dù đặc trưng của hành chính công là chi tiêu). Việc áp thuế lên hàng hóa nhập khẩu là một động thái khá thông minh nếu ở mức hợp lý (ví dụ 10% hoặc cao hơn tùy thuộc vào các nghiên cứu chống bán phá giá). Thực tế, Mỹ chưa bao giờ “ngây thơ” đến mức để Việt Nam hưởng lợi quá nhiều từ thị trường Mỹ với thuế suất thấp trong khi Việt Nam lại đánh thuế cao hàng Mỹ. Mỹ có hệ thống luật thuế, luật chống bán phá giá và các đội ngũ nghiên cứu chuyên sâu để đảm bảo mức thuế hợp lý, mang lại lợi ích cho nước Mỹ và doanh nghiệp Mỹ.
Có những mặt hàng Việt Nam xuất sang Mỹ vốn đã bị đánh thuế rất cao, ví dụ như thép. Lý do phức tạp, liên quan đến việc thép đó được sản xuất bằng vốn Việt Nam hay vốn Trung Quốc. Mỹ không muốn Trung Quốc trở thành bá chủ toàn cầu – một điều mà nhiều người tin rằng có thể xảy ra trong vài thập kỷ tới. Do đó, các động thái hiện tại của Mỹ thường nhằm mục tiêu làm suy yếu kinh tế Trung Quốc, ngăn chặn sự phát triển và làm giảm vị thế của họ trên trường quốc tế.
Cách dễ nhất để làm điều đó là chặn các “vòi bạch tuộc” của Trung Quốc – tức là các doanh nghiệp hoặc doanh nhân Trung Quốc mở rộng sản xuất sang các nước khác để giảm tác động từ chính sách “Trung Quốc +1” (các doanh nghiệp Mỹ và phương Tây dịch chuyển nhà máy khỏi Trung Quốc để tránh căng thẳng thương mại). Họ có thể đặt nhà máy ở Việt Nam, Ấn Độ… Ví dụ như Apple có nhà máy ở cả Việt Nam, Ấn Độ và Trung Quốc. Xu hướng có thể là: Apple sản xuất ở Trung Quốc chủ yếu phục vụ thị trường nội địa Trung Quốc, còn nhà máy ở các nước khác sản xuất cho phần còn lại của thế giới và thị trường Mỹ. Dưới thời Trump, thuế thường được đánh dựa trên thâm hụt cán cân thương mại.
Việt Nam đang xuất siêu sang Mỹ rất lớn (khoảng hơn 100 tỷ USD xuất khẩu so với mười mấy tỷ USD nhập khẩu). Nghe có vẻ Việt Nam rất tài giỏi, bán nhiều mua ít, khiến Mỹ chịu thiệt. Nhưng thực tế không hẳn vậy. Nền kinh tế Mỹ, đặc biệt là các tập đoàn lớn có chuỗi cung ứng toàn cầu như Nike, Apple…, xem Việt Nam như một mắt xích quan trọng. Doanh nghiệp cần linh kiện, cần nhà máy lắp ráp. Họ sẽ chọn nơi có chi phí nhân công rẻ, tay nghề ổn định. Đó là điều kiện cần. Điều kiện đủ là thuế nhập khẩu từ Mỹ vào nước đó không cao. Khi đó, họ sẽ đặt nhà máy để tận dụng ưu thế về nhân công giá rẻ, thuế trong nước thấp và thuế xuất khẩu sang Mỹ thấp.
Khi Mỹ và Trung Quốc có thương chiến, các doanh nghiệp (cả Mỹ và Trung Quốc) dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Mỹ (như trong ngành may mặc, da giày, túi xách) đã ở Việt Nam từ rất lâu. Sự hiện diện này làm tăng nhập khẩu nguyên liệu vào Việt Nam, đồng thời tăng mạnh xuất khẩu thành phẩm (giày dép, quần áo…) sang thị trường chính là Mỹ, giúp người dân Mỹ mua được hàng giá rẻ. Đổi lại, hàng triệu người Việt Nam có công ăn việc làm.
Khi ông Trump đề xuất áp thuế cao như vậy lên Việt Nam, nó có thể kích hoạt việc các doanh nghiệp tìm cách rời đi để duy trì lợi thế về giá. Họ sẽ chuyển đến những nước không bị đánh thuế hoặc thuế thấp hơn. Hoặc, nếu họ tính toán rằng ngay cả khi bị đánh thuế cao, sản xuất ở Việt Nam vẫn có lợi hơn nơi khác, thì họ sẽ ở lại. Tuy nhiên, khả năng này cũng khó nói, vì ngoài Việt Nam, còn nhiều nước nghèo khác sẵn sàng cung cấp khả năng sản xuất giá rẻ. Rõ ràng, chính sách thuế này của ông Trump nếu được áp dụng sẽ gây thiệt hại rất lớn cho Việt Nam.
Liệu ông Trump có dựa trên quy tắc nào không? Về bản chất, có vẻ ông ấy dựa trên những logic riêng, đôi khi bị cho là phi khoa học. Ông ấy không chỉ đánh vào Việt Nam mà còn có thể gây tổn hại cho chính các doanh nghiệp Mỹ. Với tư cách là người đứng đầu chính phủ Mỹ, mục tiêu của ông là làm lợi cho chính phủ Mỹ (tăng thu thuế), còn hậu quả cho các bên khác có thể không phải là ưu tiên hàng đầu. Nhưng liệu ông có thực sự mặc kệ hay không, và lý do sâu xa là gì, chúng ta cần phân tích thêm.
Mỹ có những lợi ích kinh tế và chính trị gắn với các quốc gia khác. Ví dụ, Mỹ từng muốn kiểm soát đảo Greenland vì mục tiêu quốc phòng, biến nó thành một cứ điểm chiến lược. Greenland cũng có tiềm năng cho các ngành sản xuất tỏa nhiệt nhiều nhờ khí hậu lạnh.
Vậy Việt Nam có giá trị gì với Mỹ? Việt Nam nằm ngay sát sườn Trung Quốc. Mỹ muốn kìm hãm đà tăng trưởng của Trung Quốc, đưa nước này trở lại mức phát triển trung bình khá, ngăn chặn việc trở thành siêu cường hay bá chủ toàn cầu. Để làm điều đó, Mỹ cần cô lập Trung Quốc. Mỹ tận dụng thế mạnh tuyệt đối của mình – nền kinh tế tiêu dùng lớn nhất thế giới – để gây ảnh hưởng, khiến các quốc gia khác giàu lên hoặc nghèo đi theo ý muốn của mình thông qua chính sách thương mại. Ông Trump đang sử dụng công cụ này một cách tối đa để tạo áp lực. Nhờ đó, Mỹ có lợi thế lớn trong việc thương thảo với Việt Nam, nhằm đạt được những thỏa thuận có lợi cho Mỹ.
Chúng ta có thể hình dung các yêu cầu tiềm năng: Việt Nam cho Mỹ thuê cảng Cam Ranh, trở thành đồng minh quân sự, bán đất hiếm cho Mỹ… Tất cả những lợi thế mà Việt Nam có thể cung cấp để giúp Mỹ sử dụng như một “tiền đồn” răn đe Trung Quốc. Đây là giai đoạn thuận lợi để Mỹ “make deal” (đạt thỏa thuận) với Việt Nam, đưa Việt Nam vào quỹ đạo của mình. “Không còn ngo ngoe được nữa” ở đây có nghĩa là phát triển theo định hướng của Mỹ, trở thành tiền đồn kiềm hãm Trung Quốc.
Các “chư hầu” đi theo Mỹ có lợi nhiều không? Đương nhiên là có, vì thị trường tiêu dùng Mỹ rất lớn. Người Mỹ có xu hướng chi tiêu nhiều (“paycheck by paycheck” – làm bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, giống cách sống của tôi hiện tại). Điều này thúc đẩy kinh tế Mỹ phát triển vượt bậc, tạo nguồn lực cho đổi mới. Điểm nguy hiểm là lối sống này có thể làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Sự ổn định chỉ tồn tại khi còn niềm tin vào sự phát triển liên tục của Mỹ, vào việc làm và thu nhập. Nếu niềm tin đó mất đi, mọi thứ có thể sụp đổ.
Đó là vấn đề của Mỹ. Còn vấn đề của Việt Nam là chúng ta đang theo đuổi chính sách ngoại giao “cây tre”, cố gắng tận dụng tối đa sự ủng hộ từ tất cả các nước, chơi với cả Trung Quốc và Mỹ. Nhưng đến một lúc nào đó, Mỹ có thể yêu cầu Việt Nam phải chọn phe. Ví dụ như Campuchia, Lào (dù ít làm ăn với Mỹ nhưng xuất khẩu nhiều hàng vào Mỹ) có thể đối mặt với thuế “lên tới nóc”. Việt Nam cũng vậy. Nếu Việt Nam hoàn toàn ngả về phía Mỹ, có thể sẽ được hưởng lợi về chính sách thuế. Nhưng cái giá phải trả là trở thành đối thủ địa chính trị của Trung Quốc. Có khổ không? Có thể. Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines cũng là những “tiền đồn” của Mỹ. Lợi ích là có sự trợ giúp của Mỹ, có thể giàu lên nhanh chóng. Rủi ro là nếu chiến tranh xảy ra, “tiền đồn” sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề trước tiên, trong khi người dân Mỹ ở xa có thể vẫn an toàn.
Nếu Việt Nam không đạt được thỏa thuận giảm thuế với Mỹ (bằng cách nhượng bộ hoặc chấp nhận cho Mỹ những lợi ích lớn hơn), chúng ta sẽ nghèo đi. Hàng triệu người có thể mất việc làm. Điều này có thể dẫn đến bất mãn xã hội và những hệ lụy khác. Vì vậy, câu chuyện thuế ở đây trở thành một vấn đề kinh tế – chính trị cực kỳ quan trọng.
Chắc chắn các nhà lãnh đạo Việt Nam (Thủ tướng, Tổng Bí thư…) hiểu rõ tình hình, biết rõ những yêu cầu của Mỹ. Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng họ đủ thông minh và khôn khéo để đưa ra những quyết định giảm thiểu thiệt hại nhất cho Việt Nam. Còn câu chuyện có nên “bán mình cho quỷ dữ” hay không thì còn phải xem xét. Tôi không biết chắc liệu nghiêng hẳn về một phía là tốt hơn hay tệ hơn.
Tuy nhiên, bài học từ Ukraine rất rõ ràng: khi đứng cạnh một quốc gia lớn mạnh hơn rất nhiều, dù bạn có giỏi đến đâu, nếu “anh lớn” đó có nguồn lực gần như vô hạn và quyết tâm dốc toàn lực, kết cục có thể rất thảm khốc, bất kể ai thắng ai thua về mặt quân sự ban đầu. Lịch sử cho thấy, các cuộc chiến giữa Việt Nam với Pháp, Mỹ, hay Trung Quốc trước đây, chúng ta thường chỉ đối đầu với một phần lực lượng của họ, họ chưa bao giờ dốc toàn lực để xâm chiếm hoàn toàn. Nếu họ làm vậy, sự tàn khốc sẽ lớn hơn nhiều. Lịch sử thế giới cũng chỉ ra rằng không phải lúc nào nước lớn cũng thắng nước nhỏ, nhưng tỷ lệ thắng của nước lớn là rất cao (khoảng 90%).
Về mặt chính trị, ông Trump là một người khó đoán, có thể thay đổi quyết định nhanh chóng. Ông đã chứng minh cho các đồng minh thấy rằng Mỹ có thể “quay ngoắt 180 độ” khi cần thiết. Điều này cho thấy Mỹ không phải lúc nào cũng là một đối tác đáng tin cậy để đặt trọn niềm tin. Do đó, việc nghiêng hoàn toàn về phía Mỹ hiện tại chưa chắc đã mang lại lợi ích lâu dài. Ví dụ như việc Elon Musk ủng hộ Trump có thể xuất phát từ tham vọng cá nhân muốn kết hợp với quyền lực chính trị để thực hiện những thay đổi lớn trên thế giới, và có thể là bước đệm cho con đường chính trị của chính ông ấy sau này.
Việt Nam đang đứng trước một ngã rẽ vô cùng nguy hiểm. Chúng ta đang bị ép đến đường cùng, buộc phải lựa chọn: hoặc “quỳ gối” chấp nhận các điều kiện của Mỹ để đổi lấy lợi ích kinh tế, hoặc từ chối và đối mặt với nguy cơ bị đưa vào “danh sách đen”, chịu ảnh hưởng kinh tế nặng nề. Câu hỏi đặt ra là liệu có nên đánh đổi lợi ích chính trị lấy lợi ích kinh tế, hay ngược lại?
Xin đừng hiểu lầm rằng tôi thích Trung Quốc hay ghét Mỹ. Chúng ta chỉ nên quan tâm đến câu chuyện: Việt Nam sẽ ra sao nếu thỏa hiệp tối đa với Mỹ? Và sẽ ra sao nếu chúng ta tìm được một sự thỏa hiệp chấp nhận được, vẫn giữ được vị thế tương đối trung lập? Đây là bài toán phức tạp cả về kinh tế lẫn chính trị.
Về phía Trung Quốc, nếu họ ở vị thế của Mỹ (có thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới), họ cũng có thể sẽ hành xử tương tự. Lợi thế của Mỹ là thị trường, còn lợi thế của Trung Quốc hiện tại là “công xưởng thế giới”, sản xuất hàng hóa giá rẻ, cạnh tranh trên mọi lĩnh vực, thậm chí thống trị một số ngành (như drone dân dụng). Đây là cuộc chiến giữa hai “ông lớn”. Câu nói “trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết” tuy là ẩn dụ, nhưng nó cho thấy Việt Nam nhỏ bé hơn, đứng giữa cuộc cạnh tranh gay gắt này sẽ chịu tác động rất lớn.
Hiện tại, tất cả phụ thuộc vào sự sáng suốt của lãnh đạo Việt Nam. Đồng thời, cũng hy vọng rằng chính trường Mỹ sẽ có những nhà lãnh đạo dễ đoán hơn, đáng tin cậy hơn, với đường lối chính sách rõ ràng và nhất quán. Nước Mỹ hiện tại có vẻ khó lường và không nên quá phụ thuộc vào. Việc dựa dẫm quá nhiều đôi khi có thể dẫn đến “hồi mã thương” chí mạng.
Đó là góc nhìn của tôi về câu chuyện thuế của ông Trump. Về phần chúng ta, cần chuẩn bị tinh thần cho các kịch bản từ xấu đến rất xấu. Kịch bản “tốt” cũng chưa chắc đã thực sự tốt hoàn toàn. Có thể nhiều người sẽ thất nghiệp nếu mức thuế này được giữ nguyên. Giá cả sẽ leo thang, đồng tiền Việt Nam suy yếu và trượt giá. Lương có thể không đủ sống. Hàng hóa Mỹ sẽ trở nên cực kỳ đắt đỏ. Cú đánh thuế của ông Trump thậm chí có thể khiến người Việt chuyển sang dùng điện thoại Trung Quốc thay vì Apple. Mọi thứ đều khó đoán, chúng ta hãy chờ xem.
Tuy nhiên, những ngày tháng tới chắc chắn sẽ có nhiều thách thức (challenges), và chúng ta có thể sẽ còn đối mặt với khó khăn, dù có ông Trump hay không. Bởi vì, theo một nghĩa nào đó, ông Trump chỉ là người đại diện hoặc thực thi chiến lược của một nước Mỹ đang cảm thấy vị thế của mình bị lung lay (“gã khổng lồ đang mất điểm tựa”). Khi mất điểm tựa, họ phải “quờ quạng bấu víu” để giữ vững vị thế. Quá trình đó chắc chắn sẽ khiến những quốc gia nhỏ hơn xung quanh bị “chới với”.
Ok, cảm ơn mọi người đã lắng nghe.
Ngày 04 tháng 04 năm 2028
