Nhàn đàm về “Mỹ học tính dục” nhân bài báo của FTA (Phan Tuấn Anh)

Nhàn đàm về mỹ học tính dục nhân bài báo của Phan Tuấn Anh (FTA)

Các bạn có thể xem trước bài báo của FTA ở phần dưới của bài viết. Trước khi bình luận về bài báo của FTA, tôi xin làn nhàn qua chuyện khác một chút. FTA là FanTuanAnh, tức là, bất kể bài viết nào của FTA cũng đều dành cho chữ F, và tất nhiên mỗi bài viết của anh sẽ luôn có đủ chỗ cho các hình thức fan khác nhau, dù nhiều hay ít. Tôi cũng thuộc 1 loại fan của FTA, nhưng loại này bị xếp vào hàng thiểu số, luôn bị các dòng fan khác áp đảo.

Nói đến Fan cũng như nói chuyện yêu đương, người ta yêu bằng 5,7 cách thì Fan cũng có 5,7 đường. Có Fan chỉ yêu thần tượng vì anh/ cô ấy nổi tiếng, có Fan chỉ yêu một nhân vật vì anh ấy đẹp trai, tài giỏi và là dream boy của mình. Số khác thì yêu thích cái mà anh ta giỏi, ví dụ mê Freddie Mercury vì anh ta giỏi hát, mê Lam Trường vì những bài hát ngọt ngào của anh ấy hay mê FTA vì những vần thơ ngợi ca tình yêu. Có một số lại yêu cuồng nhiệt, dở cũng bảo là hay, không biết hay không biết dở cũng yêu, loại này nói đích xác ra là yêu bản thân, và ghét thấy những cái bản thân mình có bị chê bai, chà đạp. Có loại chỉ yêu cái hay cái đẹp, dở thì bảo là dở, hay thì bảo là hay, lỡ như FTA không viết được bài nào hay nữa, thì loại đó sẽ biến FTA thành hoài niệm.

Tôi chả biết xếp mình vào loại fan nào, nhưng tôi có lẽ sẽ bị liệt vào loại cuối cùng, thiểu số, khắc nghiệt và luôn biết đòi hỏi. Loại của tôi vốn khắc khe trong cảm nhận những lại luôn gìn giữ cái thành quả của người khác đến tận cùng.

Lan man qua tính dục học…

Các nhà khoa học ta thật thâm thúy, nghiên cứu khoa học ở bên tây gọi là “study”, tức là “học”, phân tích bình luận một tác phẩm cũng gọi là “học”. Cái việc tôi làm ở đây cũng là “học” tức là học một tác phẩm của FTA. Và tất nhiên cái bản về dục tính này của FTA cũng lại là sự học. Thế cho nên Lênin mới nói là học, học nữa, học mãi. Té ra cái ta tạo ra mới toanh cũng từ cái sự học, cái ta viết lên không giống với một ai nhưng cũng do học mà thành. Tôi viết phần mềm cũng vậy, mục đích cuối cung khác người ta, nhưng nguyên liệu là do học mà có, học chỗ này một ít, chỗ kia một ít, cuối cùng mới có thể có kết quả.

Anh Tính dục, bao đời nay vẫn là chủ đề “hot” của nhân loại, vì nó là thứ khó có thể thiếu, nhưng nói chính xác hơn là không thể thiếu.

Một thằng bé ra đời vốn dĩ đã thích tự sờ cái của quý của mình, và giới phụ nữ cũng luôn thích cọ rửa cái đó một cách sạch sẽ nhất có thể. Tôi có nhớ một bài của FTA cho rằng có một dòng tu của đạo phật mang tính diệt dục, nhưng thực chất nó không phải như vậy. Mạnh dạn mà nói rằng, dục – nhục cảm chỉ nhằm một mục đích là cho chúng ta sướng, mà miễn sao có cách làm cho ta sướng nghĩa là ta sướng. Ta nằm một mình, trần truồng, để nghe gió ve vuốt trên thân, thấy sướng nghĩa là sướng. Các cô gái du kích, đêm về toàn thân nóng ran, ngâm mình xuống suối, mát lạnh, cơ thể được đáp ứng một phần, nhục dục giảm dần, tưởng như vậy là diệt dục nhưng không phải nó cũng là một hành động phục vụ cho nhục dục.

Ông thầy tu, ngồi tụng kinh niệm phật, bỏ qua tình cảm nam nữ, bỏ qua hành dục, chỉ tự mình bằng trí não mà thiền để làm cho thân thể thoải mái, tinh thần sảng khoái, không dính vào tạp niệm, nhưng cũng là một cách tự giúp cho thân thể nhẹ nhàng khoái lạc. Một người đàn ông bình thường muốn không còn suy nghĩ đến tính dục nữa thì anh ta sẽ thực hiện hành vi tính dục và sau đó rơi vào trạng thái ngủ say, không thòm thèm, không đòi hỏi… Có lẽ, vị chân tu chỉ khác với người thường là cũng đạt đến trạng thái đó nhưng bằng ý thức chứ không bằng hành động. Có lẽ vậy thôi. Tôi chưa từng tu tập, nên chỉ lơi bơi đoán mò mà thôi…

Quay lại với đề tài “Mỹ học tính dục… “ của FTA

Tôi đồng ý với ý kiến của anh về vai trò của Condom (hay bao cao su), nó không chỉ cân bằng vai trò giữa nam và nữ mà còn tạo nên một chút lợi thế cho phái nữ, thế này nhé, muốn thực hiện hành vi tính dục, phải học cách đeo condom trước đã J. Condom cũng là cái bắt buộc người đàn ông phải nhớ đến trách nhiệm trước và sau khi thực hiện hành vi tính dục của mình. Khi đi mua một chiếc condom, cũng đồng nghĩa với việc anh đã nghĩ tới trách nhiệm…

Và rõ ràng, với thế giới ngày nay, không chỉ riêng phụ nữ Trung Quốc, bất cứ ai cũng sẵn sàng chủ động quan hệ tình dục nếu họ muốn. Trước đây, nhu cầu thực hiện hành vi tính dục của người Việt Nam đã và luôn tuôn tồn tại, nhưng chỉ là một cái gì đó âm ĩ, có, nhưng không lộ liễu, không dám hình thành trào lưu. Nhưng nay đã khác, tự do quyết định việc quan hệ tình dục đã trở thành một trào lưu không thể ngăn cản. Và càng che dấu nó, ta lại càng chứng kiến nhiều pha nạo thai ngoài ý muốn. Một cách tiếp cận mở có lẽ sẽ cải thiện tình hình.

Thứ hai, tiền thân của các xã hội loại người vẫn là xã hội mà ở đó quan hệ mẫu hệ được áp dụng, vai trò của người phụ nữ được đặt lên trên vị trí của người đàn ông, trong một bầy ong, con ong chúa vẫn mang vị trí quan trọng nhất. Khi mà loài người còn non yếu, thì hành vi tính dục để duy trì nòi giống là quan trọng nhất, và cũng vì thế vai trò của người phụ nữ được tôn vinh. Có lẽ đó là lý do tại sao có hình tượng Nữ Oa, có hình tượng Âu cơ trăm trứng hay thần đất Gaia và hình ảnh con bò cái trong kinh Véda mà FTA đã nhắc đến.

Tôi rất thích cái cách FTA đã đề cập và giải thích về “thiên tính nữ thuần khiết”, về cái cách mà chúa Jesu được ra đời. Tôi cũng rất khâm phục phương pháp tiếp cận của anh với những tác phẩm văn học, những điển tích đi từ Tây sang Đông, FTA đã không như nhiều nhà nghiên cứu khác, trọng văn hóa phương tây mà bỏ quên phương Đông, và đặc biệt anh đã khẳng định “Như vậy, trong giấc mơ sơ khai về dục tính của loài người, thiên tính nữ đã bao trùm và có sức sống mãnh liệt qua nhiều thế kỷ.”

Tôi thích cái đoạn về “..sự áp chế của mỹ học tính dục nữ nguyên sơ (élémantaire), gắn liền với chế độ mẫu quyền..”, nó giải thích cho ta rất nhiều thứ, và chỉ với một đoạn rất ngắn FTA đã nêu được một cách sâu sắc và khá đầy đủ về hiện tượng tâm lý “nữ quyền làm mẹ”, điều mà khi đề cập đến tôi phải mất cả mấy trang dài mới có thể đi đến cái đích cuối cùng.

Khi chế độ nữ quyền biến mất, quan niệm về tính dục cũng sai lệch đi, “nữ quyền” trong tính dục bị thủ tiêu, bị chê bai, nguyền rủa. Nhưng nam giới thì lại vô cùng tự do với sự giúp đỡ của luật pháp và phong tục, cho phép đa thê là một cách khẳng định quyền năng trong “tính dục” của nam giới. Nữ giới từ chỗ đầy quyền lực trong tính dục, trở nên đau khổ và im bặt về ham muốn của mình, có chăng cũng chỉ là sự mong muốn một ân huệ. Rồi đến giai đoạn mà nữ giới thốt lên nỗi niềm của mình, và trở thành phong trào mong muốn giải phóng tình dục. Khẳng định nữ quyền, khẳng định cần phải có sự công bằng giữa nam và nữ, mà nếu xét cho đến cùng thì đó là công bằng trong quyền năng về “tính dục”.

Thế còn tương lai thì sao, với FTA là “…Và như thế, mỹ học tính dục nữ sẽ chính thức mở ra những đường biên mới. Một người đàn ông hoàn toàn có thể mang thiên hướng tính dục nữ, ngược lại, một người phụ nữ lại mang thiên hướng tính dục nam…”, thực ra, đó không là tương lai, mà nó đang ở thì hiện tại, đã có tình dục đồng giới thì cũng đã có cái mà FTA mô tả. Cũng đã tồn tại & được chấp nhận về một cái gọi là tình dục tự do, tình dục không đi kèm với hôn nhân. Ngày càng ngày, người ta lại càng muốn tìm ra cách thỏa mãn nhu cầu về tính dục mà ít phải bị lệ thuộc vào bạn tình hơn. Tính dục sẽ dần mang sắc thái đơn tính, nam nữ sẽ càng ít bị phân biệt, cái mà giờ đây văn hóa chúng ta đang không chấp nhận và lạc điệu. Tính dục sẽ thêm những nhánh mới khác với tình dục, vai trò của tình dục khác giới sẽ bị giảm đi chút ít (nhưng không mất đi). Càng phong phú về các hình thức và nội dung tính dục, con người cũng dần đến với ngưỡng của sự tự do. Cái mà như ban đầu, tôi đã nhắc đến về mục tiêu của một nhánh trong đạo phật.

Nói cho cùng, tính dục, bản thân nó đẹp chứ không xấu, vô cùng gần gũi và không đáng bị coi là thứ chỉ nên giấu diếm trong bóng tối. Tuy nhiên, vì đã quá phát triển, nên con người luôn có xu hướng chối bỏ nguồn gốc động vật của mình.. Mọi thứ mỹ học trên đời này đều bắt nguồn từ những cái mà đôi khi chúng ta xem nó như lại những thứ “thô bĩ”. Trong khi đó lại có quá nhiều thứ thô bĩ lại được chúng ta khóa lên cho nó không biết bao nhiêu là mỹ từ.

Tạo hóa đã cho giống cái những đường cong và những nét đẹp nhất, dẫu ta không muốn ta cũng phải thừa nhận là đẹp, và vì thế phái đẹp vẫn luôn là một thứ quyền lực mà ta khó thoát khỏi sự chi phối của nó nhất. FTA đã phân tích rất sâu sắc về những nét đẹp của những biểu tượng cho tính dục nữ. Và tất nhiên “Dục tính không chỉ là chân móng, nó còn là đỉnh tháp của văn chương. Một khi nó phóng vượt từ đam mê bản năng lên vương quốc của tinh thần ý niệm bằng đôi cánh của khát vọng: “Khi thị dục bò từ giác quan (senses) lên cảm giác (feeling), tới cảm xúc (emotion), lên ý muốn (will), rồi lên ý chí (free will)… cao hơn nữa đến linh hồn (soul) và nhắm đến tột đỉnh của tinh thần (spirit)..”.

Tạo hóa không uổng công khi luôn tạo ra giống cái và giống đực cho muôn loài (tất nhiên không phải là tất cả), và nếu không có điều đó, thì có lẽ chẳng có một thứ gọi là “mỹ học tính dục” mà chúng ta bàn đến hôm nay!

Cảm ơn tạo hóa, và cảm ơn FTA đã viết về vấn đề này!

Mỹ học tính dục và cuộc phiêu lưu giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật (Nguồn: Tạp chí Sông Hương)

TUẤN ANH

“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)

Cuộc cách mạng giải phóng tính dục và quyền của nữ giới trong thời hậu hiện đại, có thể xem bắt đầu từ những nhà nữ quyền đầu tiên như Luce Irigaray (sinh 1932 tại Bỉ), mang bản chất của một cuộc giải phóng những xung năng tính dục cho 1/2 dân số nhân loại. Cuộc cách mạng này mang tính triệt để cao, bởi vì, nó giải quyết tận gốc khâu bất bình quyền nhất trong tương quan giới tính: khâu tính dục. Từ nay, người phụ nữ đã có thể ngủ ngon sau khi ân ái mà không sợ mang thai ngoài ý muốn. Theo Sách trắng về tình hình sức khoẻ tính dục cư dân mạng Trung Quốc, 90% phụ nữ Trung Quốc cho rằng họ sẵn sàng chủ động quan hệ tình dục, nếu muốn. Từ đó, có thể thấy bình đẳng và giải phóng tính dục là yếu tố cốt lõi trong viễn trình đi tìm lại văn minh và dân chủ cho gần bốn tỷ người (giới nữ). Để chính từ cuộc cách mạng ấy, một nền mỹ học tính dục mang thiên tính nữ được phục hưng một cách rực rỡ.

Trước khi có sự giải phóng thiên tính nữ trong mỹ học tính dục, có thể nói, nền mỹ học loài người chỉ có thể đặt đứng trên một chân, và chỉ nhằm phục vụ cho một giới (nam). Với quan điểm “phụ nữ là cái giới tính vốn không phải là giới tính” (women are the sex which isn’t one), nền mỹ học tính dục nam quyền theo Irigagay luôn quan niệm, hoặc là không có tính dục nữ, hoặc tính dục nữ chỉ là một thế lưỡng nguyên (dualism) điên loạn. Thật ra, đó chỉ là một “đại tự sự” (meta narrative) của những giấc mơ có tính chất “thủ dâm” (masturbation) của mỹ học tính dục nam quyền. Thực chất, mỹ học tính dục nữ quyền, xét theo một trình tự khách quan nào đó, với sự có mặt trước của chế độ mẫu hệ và Mẹ đất vũ trụ (Gaia – theo cách nói của tiến sĩ vật lý Stephen Hawking trong cuốn Lược sử thời gian (1987), luôn là cái man khai của mỹ học tính dục, cũng như tồn tại một cách sâu thẳm trong “vô thức tập thể” (phạm trù của Jung) loài người.

Xét lại một số tác phẩm văn học dân gian và tín ngưỡng có tính chất huyền thoại, luận điểm trên sẽ càng được xác tín. Trong thần thoại Hy Lạp, nếu vị thần khởi nguyên là Khaos (Hỗn mang) vốn không xác định giới tính, thì vị thần đầu tiên được tạo ra, với tư cách là bà mẹ của muôn loài, đó chính là thần đất Gaia.Trong kinh Véda, hình ảnh con bò cái được tôn thờ với ý niệm là vật tổ của loài người. Trường ca L’epopée de Gilgemes của người Babylon cách đây 35 thế kỉ cũng miêu tả mối quan hệ giữa phụ nữ và tính dục. Zeus và Hera trong thần thoại Hy Lạp cũng từng chất vấn Tiresias (một kẻ lưỡng tính – androgyme) rằng, nam hay nữ khoái cảm hơn trong tính dục. Tiresias trả lời rằng, nếu khoái cảm chia làm mười phần, thì người phụ nữ có đến chín, nam giới chỉ có một.

Ngay cả ở hai tôn giáo lớn là Cơ đốc giáo và Phật giáo, chúng ta vẫn tìm thấy sự bao trùm của hai biểu tượng vĩnh hằng của mỹ học thiên tính nữ. Với Cơ đốc giáo, đó là hình tượng Đức mẹ đồng trinh Maria. Thực chất, đạo Kito – vốn là một “siêu truyện” về tính dục nam quyền (qua các phát biểu của thánh Paul, thánh Augustin, giám mục G.Limerich), đã ra sức diệt bỏ dục tính nữ với phương thức đồng nhất với thiên chức người mẹ và giá trị đồng trinh. Tuy nhiên, niềm tin đó kì thực lại hạ thấp tính dục nam, vì hoá ra chúa Jesu hoàn toàn được sinh ra trong thiên tính nữ thuần khiết. Một hệ quả khác, đó là sự ra đời của đạo Tin Lành với tư cách một sự phản kháng với các hệ thống thiết chế giáo lý cũ. Tin Lành đã loại bỏ ý niệm đồng trinh của Đức mẹ Maria, đó không phải là sự báng bổ một niềm tin đã trở thành thánh hóa, mà là sự trả lại cho người phụ nữ quyền được giao phối khi sinh sản – quyền được thừa nhận tính dục nữ của mình.

Với đạo Phật, ngay trong tác phẩm cổ điển liên quan trực tiếp đến tôn giáo này là Tây Du Kí (Ngô Thừa Ân), chúng ta có thể thấy người duy nhất chế ngự được Bật Mã Ôn (Tôn Ngộ Không) là một người phụ nữ (Quan Thế Âm bồ tát). Không phải lò luyện đan hay bảo tháp ở thiên đình có thể kìm hãm được 72 phép thần thông của Ngộ Không, mà là một chiếc vòng kim cô của Phật Bà. Đọc lại Tây Du Ký, ta còn tìm thấy một Tây Lương mẫu quốc theo mẫu quyền tuyệt đối, nơi nữ tính và tính dục nữ một chiều được lên ngôi. Đọc lại thần thoại Hy Lạp, ta tìm thấy truyền thuyết về những chiến binh nữ Amazon với tục lệ triệt từ tính dục nam, bằng cách chỉ giữ lại con gái mà cho đi con trai của mình. Đọc lại Mahabharata ta thấy năm anh em Pandava cùng lấy và yêu tha thiết nàng Dropadi. Đọc lại Ramayana ta thấy vị thần ngọc hoàng Indra phải mang trên mình hàng ngàn cái dấu yoni (âm vật). Đọc lại lịch sử thời Phục hưng, ta thấy do ám ảnh từ cuốn sách Đức cha của nhà thơ, Leonardo Da Vinci đã bị ám kỷ huyền thoại chim kền kền mái đẻ con không cần chim trống. Sau này, L. da Vinci thường huyễn tưởng ông là con trai của một con chim kền kền mái không có cha. “Kết hợp với kí ức đó, theo cách duy nhất cho phép ông có những ấn tượng sớm như cách tái hiện, một âm vang lạc thú cảm thấy khi chiếm hữu vú mẹ” [5, tr.g 29].Như vậy, trong giấc mơ sơ khai về dục tính của loài người, thiên tính nữ đã bao trùm và có sức sống mãnh liệt qua nhiều thế kỷ.

Thông qua sự thừa nhận mỹ học tính dục có khởi nguyên từ thiên tính nữ, chúng ta có thể tạm hình dung qua thế giới của văn học nghệ thuật, cuộc phiêu lưu của nền mỹ học này theo một diễn trình như sau:
Đầu tiên, đó là sự áp chế của mỹ học tính dục nữ nguyên sơ, gắn liền với chế độ mẫu quyền. Do đó, thần thoại Hy Lạp mới có truyền thuyết về nàng Mêđê sẵn sàng giết con khi người đàn ông phản bội. Và cho đến nay, thuộc tính sở hữu của người mẹ bắt nguồn từ tính dục vẫn là bất khả. Trong Đùa của tạo hoá, nhà văn Phạm Hoa đã cho thấy người mẹ (bà Thuận) ghen tị với con dâu (Loan) bởi một lí do sâu xa: người con dâu được phép quan hệ tính dục với con trai bà. Người mẹ do kìm nén mặc cảm Oedipe (loạn luân) và cả ức chế tính dục để thủ tiết, đã nảy sinh xung đột ác nghiệt đến không thể dung hoà trong gia đình. Đó có thể xem là hiện tượng của tâm lý “nữ quyền làm mẹ” (motherhood feminism).
Tiếp theo là giai đoạn trỗi lên và xác lập vị trí thống trị của mỹ học tính dục nam, đi liền với thiết chế phụ quyền trong gia đình và xã hội. Từ đó, Rama buộc Xita phải bước qua biển lửa (giàn thiêu) để chứng minh cho sự trong trắng tính dục của mình (Ramayana); Kinh thánh Do Thái viết về đàn ông “sinh ra” phụ nữ từ một cái xương sườn, Upanishad cũng kể rằng người đàn ông (Purusa) có trước và tạo ra đàn bà. Trong văn học Việt , các tác phẩm như Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ Hồ Xuân Hương hay Truyện Kiều (Nguyễn Du) đều là những tiếng thở dài cho sự chà đạp thân phận và tính dục nữ dưới xã hội nam quyền toàn trị. Trong điện ảnh, những tác phẩm như Đèn lồng đỏ treo cao (đạo diễn Trương Nghệ Mưu), được chuyển thể từ tiểu thuyết Thê thiếp Thành Quần của nhà văn Tô Đồng, đã khắc hoạ một cách sâu sắc thân phận và vấn đề tính dục nữ trong gia đình phong kiến đa thê.
Bước qua giai đoạn thứ ba, có thể xem từ những năm 60 của thế kỉ XX đến nay, ở phạm vi toàn cầu mà đặc biệt là ở Pháp, đã diễn ra “sự thức tỉnh và phục hưng của mỹ học tính dục nữ”. Trong văn chương, Simone de Beauvoir đã có một tuyên ngôn nổi tiếng trong tác phẩm Le deuxième sexe (1949): “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không hiển nhiên là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ). Lúc này, thay vì những nhà văn nam viết về tính dục nữ như trước đó, thì ngược lại, “văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn cũng vì hình như có tính tự thuật nhiều hơn” [8]. Người khẳng định về mặt triết học lớn nhất cho thiên tính nữ là Julia Kristeva (sinh 1941 tại Bulgari). Kisteva thậm chí phản đối niềm tin phụ nữ là một “bản thể luận”, một giới tính xác định, mà là “phụ nữ chính là không gian và khả tính của biểu đạt nghĩa” [1, tr.g 98]. Như vậy, không phải chỉ có những ai mang nhiễm sắc thể XX mới có biểu hiện thiên tính nữ. Cũng giống như, không phải chỉ có hành vi sinh dục (génital) mới biểu đạt cho hành vi tính dục (sexuel). Diễn trình giải phóng dục tính nữ trong lịch sử là một quá trình mà ở đó, giới nữ đi từ khách thể dục tính đến chủ thể dục tính. Tính dục của giới nữ đi từ quan niệm “như là nghĩa vụ và thiên chức” (làm mẹ) chuyển sang “như là đam mê và quyền lực” (cái đẹp). Vai trò người đàn ông cũng chuyển hoá từ kẻ thống trị và chiếm đoạt, trở thành một đối tác, thậm chí, là một công cụ. Tính dục đi từ một sự khổ hạnh (ascèse) có tính chất cấm kị, bước ra trở thành một ân sủng (prasada) của tạo hoá, và giờ đây, bỏ qua sự e thẹn (pudeur), để trở thành một khoa học – khoa học về tính dục (sexologie). Sự kiện trao giải Nobel Văn học 2007 cho nhà văn nữ người Anh Doris Lessing chính là một sự ghi nhận về nữ quyền của thế giới, ít ra, là của 1/2 thế giới (nam giới). Bởi vì, Lessing là người được vinh danh nhờ “những trang viết mang tính thiên sử thi về trải nghiệm nhân sinh quan của người phụ nữ”.

Vậy còn về tương lai? Giai đoạn thứ tư sau thời kì phục hưng của mỹ học tính dục nữ, đó phải chăng là sự hoà quyện và xích lại gần nhau của mỹ học dục tính nam – nữ bình quyền? Hoặc trong trường hợp khác, nó sẽ chuyển dịch sang mỹ học tính dục đồng tính (homosexualité)? Phương án hai cho dù có phần cấm kị, nhưng theo chúng tôi, có lẽ nó mang tính dự cảm sẽ diễn ra trong tương lai không xa. Khi mà, những tác phẩm điện ảnh về đồng tính nam (Broken Moutain – đạo diễn Lý An), đồng tính nữ (Monster – đạo diễn Patty Jenkins) đã làm mưa làm gió trên thảm đỏ của lễ trao giải Oscar. Về phần văn học đương đại, Haruki Murakami sau những thành công vang dội với vấn đề mỹ học tính dục khác giới, giờ đây, tình yêu đồng giới nữ đang là chủ đề mà nhà văn Nhật Bản này đề cập đến trong Người Tình Sputnik (NXB Hội Nhà văn), một tác phẩm mới được ấn hành ở nước ta. Và như thế, mỹ học tính dục nữ sẽ chính thức mở ra những đường biên mới. Một người đàn ông hoàn toàn có thể mang thiên hướng tính dục nữ, ngược lại, một người phụ nữ lại mang thiên hướng tính dục nam. Khải thị những vấn đề mỹ học tính dục như trên không phải là quan điểm về sự cáo chung của nền văn minh tính dục loài người, mà theo chúng tôi, là một cuộc phiêu lưu hồi tưởng lại những kí ức đồng tính đã từng bao trùm lên nền văn minh của chúng ta, từ thời Platon hoặc Leonardo da Vinci còn hiện hữu.

Arthur Schopenhauer (1788 – 1860) từng có một câu nói thú vị: “Người đàn bà có hơn người đàn ông một bản năng” [3, tr.g 66]. Mặc dù vậy, họ là những người “như nhất” trong tính dục, một sự “như nhất” dễ “lầm lạc”, nói như cách của Schopenhauer. Một người đàn ông trong một năm có thể đẻ hàng trăm đứa con với những người đàn bà khác nhau. Nhưng một người đàn bà chỉ có thể đẻ một đứa con trong một năm dù có thể quan hệ với nhiều người đàn ông đi nữa. Mỹ học tính dục nữ đặc biệt thú vị và phức tạp ở chỗ đó. Đó chính là những cánh hoa hồng và những chiếc gai sắc nhọn trong mỹ học tính dục nữ. Trong văn học – nghệ thuật, sự ám ảnh của những biểu tượng tính dục nữ là một nét đặc biệt thú vị. Nó gần như là một biểu hiện sinh động của tín ngưỡng bái vật giáo (fétichesme) trong ẩn ức sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Sự thay đổi những biểu tượng có tính chất bái vật giáo trong mỹ học tính dục nữ không chỉ biến thiên theo chiều dài của thời gian, mà còn theo chiều ngang của văn hóa. Nếu như người phương Tây đặc biệt đề cao vai trò của bộ ngực cùng cái thắt eo nhỏ của người phụ nữ như là biểu tượng của sex, thì người Trung Hoa lại mê đắm những bàn chân của giới nữ. Trong khi đó, với người Ấn Độ, văn hoá Khơme và Champa, âm vật (yoni) mới là cổ mẫu của dục tính nữ. Với người phương Tây, “đôi vú nở nang đầy đặn của người đàn bà thu hút nam giới một cách kì lạ, vì nó liên quan trực tiếp đến cơ năng sinh sản của người đàn bà” (Métaphysique de l’amour, métaphysique de la mort – Schopenhauer). Với người Trung Hoa, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Mông Cổ, bàn chân giới nữ lại là một tín ngưỡng về tính dục, tín ngưỡng về tục sùng bái chân (footfetish). Trong những bức tranh Cung Xuân Đồ (vẽ cảnh trai gái ái ân), các tác giả khắc họa hình tượng nam nữ hoàn toàn khỏa thể nhưng rất hiếm khi lộ ra bàn chân giới nữ. Trong Ỷ thiên đồ long ký (Kim Dung), quận chúa Triệu Mẫn vì bị Trương Vô Kỵ cầm được bàn chân mà phải bỏ cha đi theo một tên đại ma đầu, kẻ thù số một của triều đình. Tác phẩm Tây Sương ký (Vương Thực Phủ) thì mô tả: “Mỗi bước đi đều khiến người ta thương cảm, như cành liễu trước gió”. Với người Ấn Độ, người Champa và người Khơ me, đó là những biểu tượng điêu khắc về yoni trong các tháp Chàm, trong kỳ quan Ăngco Vát, Ăngco Thom nổi tiếng. Cũng vì xem âm vật là biểu tượng của tính dục nữ, các dân tộc ở châu Phi mới có hủ tục cắt bỏ âm vật (clitoridotomy) như một sự kìm hãm dục tính, giống như người Hán với tục bó chân. Chính sự khác biệt về văn hóa đã đưa ra những quan điểm thẩm mỹ dị biệt về bái vật giáo tính dục nữ. Người Trung Hoa vốn chuộng những phụ nữ mảnh mai, mình hạc xương mai, mang tính tinh thần nên có tục sùng bái chân nhỏ (gọi là kim liên). Người phương Tây vốn trọng phụ nữ đẫy đà, nghiêng về vẻ đẹp phồn thực, như hình tượng nữ thần Tình yêu và Sắc đẹp trong bức họa Sự ra đời của nữ thần Aphrodite của danh họa Botticelli, hoặc bức tượng Venus ở Milo. Chính vì vậy, bộ ngực đẫy đà của giới nữ – được xem như biểu tượng của sức sống và sự dồi dào trong tính dục.

Ngay cả trong bản thân nội bộ những nền văn hoá có cùng chung một biểu tượng bái vật giáo, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những sự khác nhau. Trên thế giới có 190 dân tộc thì chỉ có 13 dân tộc lấy bộ ngực nữ làm bái vật giáo tính dục. Trong nội bộ 13 dân tộc ấy, có chín dân tộc trọng bộ ngực to, hai dân tộc thích kiểu vú mướp (pendulous), hai dân tộc còn lại thích bộ ngực vểnh lên. Tuy vậy, sự tương cảm giữa Đông và Tây, cổ và kim không phải là không xảy ra trong mỹ học tính dục nữ. Người Trung Hoa có tục bó chân thì người phương Tây có những vũ điệu ballet đi trên những đầu ngón chân. Nếu ngày xưa những gót sen là sự ám ảnh của người nghệ sĩ thì ngày nay giày cao gót (về nguyên tắc cũng là sự thu hẹp diện tích, thay đổi dáng đi và tăng chiều cao như gót sen) là một biểu tượng của thiên tính nữ. Và như thế, cho dù ở thời đại nào, nền văn hoá nào, người phụ nữ vẫn luôn có cho mình thứ quyền lực về cái đẹp tính dục.

Chúng ta đang sống trong thời đại mà văn học – nghệ thuật chịu ảnh hưởng đậm nét và được động khởi từ chất men của mỹ học tính dục nữ. Ở hội họa, Picasso đã đưa nghệ thuật thế giới bước sang thời hiện đại bằng bức tranh lập thể đầu tiên về chủ đề các cô gái khỏa thân, tác phẩm Les Desmoiselles d’Avignon (Những cô gái ở Avignon – 1907). Ở điêu khắc, bức tượng Nữ thần Tự do không chỉ là biểu tượng lừng lững cho nền dân chủ Mỹ, mà còn cho sự giải phóng thiên tính nữ. Ở điện ảnh, hình tượng cái đẹp đầy dục tính của Marilyn Moonroe (1926 – 1962) đã góp phần xác định chỗ đứng thứ 7 một cách vững chắc trong thế giới nghệ thuật cho nghệ thuật 24h/1s. Trong âm nhạc hiện đại, những biểu tượng như Spice Girls, Britney Spear, Madonna không chỉ là tuyên ngôn cho nữ quyền, mà còn là tuyên ngôn cho cách mạng giải phóng tính dục nữ. Ở truyền hình, không ai nổi tiếng và quyền lực bằng nữ hoàng Oprah Winfrey. Ở nhiếp ảnh, tác phẩm về một người mẹ đang tắm cho đứa con bị bệnh nhiễm thuỷ ngân có tên Tomoko and mother in the Bath (1971) của E. Smith, là một trong những tác phẩm nhiếp ảnh nổi tiếng nhất của thế kỉ XX… Và tất nhiên, với văn học, biểu trưng về mỹ học tính dục luôn là một “không gian và khả tính của biểu đạt và nghĩa” (Kisteva). Ở Pháp có Người tình của M.Duras, ở Mỹ có Mật mã Da Vinci (Dan Brow), ở Trung Quốc có Xin lỗi em chỉ là con đĩ (Tào Đình), Điên cuồng như Vệ Tuệ (Vệ Tuệ), ở Nhật có Rừng Nauy (Murakami Haruki) Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường (Yamada Amy) – một tác phẩm mới được giới thiệu ở Việt Nam… Và ở nước ta, trước 1975 đã có một thế hệ như Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài…, thế hệ sau 1975 có Phạm Hoa, Vi Thuỳ Linh, Đỗ Hoàng Diệu (ở trong nước), Lệ Hằng, Lê Thị Cẩm Vân, Trân Sa, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Dương Như Nguyện (ở hải ngoại)… là những tiếng nói ban đầu nhằm khai phá một vùng trời mà bấy lâu nay vẫn còn như cấm kỵ.
Tình yêu luôn bắt đầu từ bản năng, “thật vậy, mọi loại tình yêu cho dù đượm vẻ thanh khiết mấy cũng bắt rễ từ bản năng chủng tính” (Schopenhauer) [3, tr.g 42]. Và có một sự thật là, đam mê libido của loài người được khởi nguồn từ cội nguồn tính dục nữ, vì “người mẹ bao giờ cũng là tình yêu thương đầu tiên của đứa trẻ” [6, tr.g 19], nơi khởi nguồn những hành vi tính dục ấu thơ. Trong thế giới của cái đẹp, thiên chức ngợi ca vẻ đẹp con người, mà cụ thể là vẻ đẹp thiên tính nữ, luôn là động cơ và mục đích của các hoạt động thẩm mỹ. Nói như Nietzsche: “Chừng nào cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng là đồng nhất”(7). Và như thế, nếu ta đồng ý rằng, “mỹ học là đạo đức học của tương lai”, thì hẳn nhiên, ta sẽ có một kết đề: cái đẹp dục tính của phái nữ là biểu trưng tối thượng và sau cùng của tháp ngà đạo đức, của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Dục tính không chỉ là chân móng, nó còn là đỉnh tháp của văn chương. Một khi nó phóng vượt từ đam mê bản năng lên vương quốc của tinh thần ý niệm bằng đôi cánh của khát vọng: “Khi thị dục bò từ giác quan (senses) lên cảm giác (feeling), tới cảm xúc (emotion), lên ý muốn (will), rồi lên ý chí (free will)… cao hơn nữa đến linh hồn (soul) và nhắm đến tột đỉnh của tinh thần (spirit), thì nó không còn đơn giản nằm trong khuôn viên “nhục dục” nữa, mà đã được hoá thân và thánh hoá rất nhiều bởi đôi cánh của siêu hình (metaphysics)”(8). Đó là một cái đẹp luôn vận động và luôn mới mẻ, bởi vì, nói như Kisteva: “phụ nữ theo đúng nghĩa của từ đó không hiện hữu. Cô ta đang trong quá trình hình thành” [1,tr.g 101]. T.A

(1) Richard Appignanesi (Trần Tiễn Cao Đăng dịch) (2006), Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh (2)Lydia Alix Fillingham (Nguyễn Tuệ Đan dịch) (2006), Nhập môn Foucault, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. (3) Arthur Schopenhauer (Hoàng Thiên Nguyễn dịch) (2006), Siêu hình tình yêu – Siêu hình sự chết, Nxb Văn học, Hà Nội. (4) Hoàng Sơn (2006), Tính dục nhìn theo phương Đông, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh (5) Đỗ Lai Thuý (2004), Phân tâm học và văn học nghệ thuật, Nxb VH- TT, Hà Nội (6) Đỗ Lai Thuý (2004), Phân tâm học và tình yêu, Nxb VH- TT, Hà Nội (7) http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/My-hoc (8) http://www.nhanvan.com/doc/2002/may/nguyenvykhanh_tanmanveductinh.htm